Những bức tranh vẽ dưới đây kể lại cuộc đời của Đức Phật Thích-ca Mâu-ni. Đa số sự kiện là có thật trong kinh điển gốc (5 bộ kinh Nikaya tiếng Pali), một số sự kiện có thể là do người đời sau thêm vào với mục đích thần thánh hóa hay thi vị hóa Đức Phật. Dù sao đi nữa bộ tranh đẹp này cũng là một tư liệu quý giúp những người yêu mến Đạo Phật dễ dàng hình dung cuộc đời của Đức Phật – một vĩ nhân có thật, sống thật trong lịch sử nhân loại.
Hoàng hậu Maya là vợ vua Suddhodana (Tịnh Phạn) giòng họ Gotama thuộc bộ lạc Sakiya (Thích-ca) ở kinh thành Kapilavatthu (Ca-tỳ-la-vệ) – hiện nay là vùng biên giới giữa Nepal và Ấn Độ. Truyền thuyết kể rằng bà nằm mộng thấy bạch tượng (voi trắng), sau đó biết mình thọ thai.
Thái tử ra đời tại vườn Lumbini (Lâm-tỳ-ni) – ngày nay thuộc nước Nepal (xem thêm: 4 Thánh tích Phật giáo). Hoàng hậu Maya qua đời sau đó 7 ngày. Bà dì mẫu Pajapati của thái tử (em gái của Hoàng hậu Maya), thứ phi của vua Suddhodana, là kế mẫu thương yêu chăm sóc thái tử suốt thời thơ ấu, trong lúc chính bà cũng vừa sinh hoàng tử Nanda, em khác mẹ của thái tử. Chuyện còn kể rằng bà giao con mình cho một nhũ mẫu và chính bà dành hết thì giờ tận tụy săn sóc hài nhi của cố hoàng hậu, chị ruột bà.
Đạo sĩ Asita (A-tư-đà) tu hành trên núi Himalaya (Hy-mã-lạp-sơn), một thân hữu rất được hoàng tộc Gotama quý trọng, đến cung vua để chào mừng và xem tướng Thái tử. Ông dự đoán Thái tử sẽ trở thành một vị Phật và sẽ chuyển Pháp Luân (nghĩa là truyền bá Chánh Pháp). Truyện kể rằng ông cảm thấy buồn vì biết rằng mình đã già, không còn sống được bao lâu nữa để có thể trực tiếp nghe Đức Phật thuyết pháp. Hai ngày sau đó, Thái tử được đặt tên là Siddhartha Gotama (Tất-đạt-đa Cồ-đàm). Vì giòng họ Gotama thuộc bộ lạc Sakya (Thích-ca) nên sau ngày thành đạo, Đức Phật có danh hiệu là Sakya Muni (dịch âm hán việt là Thích-ca Mâu-ni). Muni nghĩa là “Bậc Thánh”, Sakya Muni nghĩa là “Bậc Thánh thuộc bộ lạc Thích-ca”.
Năm bảy tuổi, Thái tử theo vua cha dự lễ hạ điền (lễ cày ruộng đầu năm). Ngài ngồi dưới bóng cây đào trầm tư như đang tọa thiền, rồi đột nhiên nhập vào một trạng thái ly dục ly bất thiện pháp, một trạng thái thiền định đi kèm với tầm, tứ, hỷ, lạc… Truyện kể rằng vua Suddhodana khi biết việc này đã đến đảnh lễ Ngài.
Từ ấu thơ đến niên thiếu, Thái tử Siddhartha được nuôi nấng, dạy dỗ, giáo dục một cách toàn diện về hai mặt: văn chương và võ nghệ. Sách kể rằng: chỉ trong khoảng thời gian từ 7 đến 12 tuổi, Thái tử đã học thông thạo 5 môn học: Thanh minh (ngôn ngữ học và văn học), Công xảo minh (Công kỹ nghệ học), Y phương minh (môn học chữa bệnh), Nhân minh (Luận lý học), Nội minh (Đạo học) và 4 sách Thánh Veda của Bà-la-môn giáo. Trong một hội thi, Thái tử đã bắn một mũi tên xuyên qua 7 lớp trống đồng, trong khi người giỏi nhất tại cuộc thi chỉ bắn xuyên được ba lớp trống đồng.
Trong một cuộc thi khác, Thái tử đã điều phục một con ngựa chứng mà trước đó không ai khuất phục được.
Một lần Thái tử đã tận lực cứu con chim thiên nga bị bắn bởi hoàng tử Devadattha (Đề Bà Đạt Đa), là em họ của Thái tử. Devadattha về sau đã có âm mưu và nhiều hành động ám hại Đức Phật nhằm chiếm quyền lãnh đạo Giáo hội.
Vào tuổi 16, theo sự sắp đặt của vua cha, Thái tử cưới công chúa Yasodhara (Da-du-đà-la), người em họ cùng tuổi với Thái tử. Hai người đã chung sống với nhau suốt 13 năm sau đó mà không sinh con.
Truyện kể rằng trong những lần ra ngoài thành dạo chơi, Thái tử lần đầu tiên trong đời tiếp xúc với những sự thật đen tối và đáng sợ khiến Thái tử xúc động sâu sắc dẫn tới ý nghĩ từ giã cuộc đời thế tục: Thái tử lần lượt gặp một người già yếu,…
…một người bệnh tật,…
…một xác chết,…
…và cuối cùng là một vị khất sĩ với dung sắc giải thoát, khoan thai đi trên đường. Cuộc gặp gỡ cuối cùng này đã giúp Thái tử sớm thấy được con đường dẫn đến giác ngộ, vĩnh viễn khắc phục mọi nỗi khổ đau và bất hạnh của đời người, con đường dẫn tới cõi Niết-bàn bất tử. Thái tử ước mong trở thành một khất sĩ, vì thế chàng quyết định từ giã thế tục. Nhưng sau đó, một tin đến khiến Thái tử không vui: công chúa Yasodhara mới hạ sinh một con trai. Thái tử nói: “Một trở ngại (rahu) đã được sanh, một ràng buộc đã xảy ra”. Nghe được điều đó, ông nội, vua cha Suddhodana đã đặt tên cháu là Rahula (La-hầu-la).
Vào một đêm, khi thời điểm đã đến, Thái tử Siddhartha quyết định từ bỏ gia đình, xuất gia cầu đạo. Trước khi xuất phát, Thái tử đi dọc theo hành lang nội cung, đến trước phòng công chúa Yasodhara. Khi Thái tử bước vào phòng, công chúa đang ngủ và ôm lấy đầu con thơ trong dáng điệu che chở, vì vậy Thái tử không thể nào nhìn mặt con mình được.
Khi tới bờ sông Anoma, Thái tử dừng lại, bỏ ngựa, cạo râu tóc, trao y phục và đồ trang sức cho người hầu Channa (Xa-nặc) mang trở về thành Kapilavatthu. Còn Thái tử một mình ra đi, với bộ áo màu vàng đơn giản của người sa-môn (khất sĩ). Năm ấy Thái tử tròn 29 tuổi.
Trên đường cầu đạo, sa-môn Gotama lần đầu tiên gặp vua Bimbisara (Tần-ba-sa-la) là vua xứ Magadha (Ma-kiệt-đà), có kinh đô là thành Rajagaha (Vương-xá). Vua Bimbisara đã động lòng hiếu kỳ trước dáng điệu cao sang của vị khất sĩ, và càng cảm phục hơn khi biết xuất thân quý tộc của Ngài, đã yêu cầu Ngài trở lại thăm vương quốc của vua sau ngày thành đạo.
Sa-môn Gotama theo học đạo sư Alara Kalama, một trong hai đạo sư danh tiếng nhất thời bấy giờ. Alara Kalama được xem là đã chứng được cấp thiền Vô sở hữu xứ, một trong 2 cấp thiền Vô sắc giới cao nhất thời đó. Sa-môn Gotama sau đó dễ dàng chứng được cấp thiền này và vị đạo sư đề nghị Ngài ở lại cùng điều khiển giáo phái của mình. Ngài từ chối lời đề nghị ấy vì xét thấy rằng những gì đạo sư này giảng dạy không mang đến giải thoát thật sự.
Sa-môn Gotama tiếp tục theo học đạo sư Uddaka Ramaputta, người đã chứng được cấp thiền Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Ngài cũng dễ dàng chứng được cấp thiền này. Đạo sư Uddaka liền đề nghị Ngài, không phải đồng lãnh đạo mà là chức vụ lãnh đạo độc nhất của hội chúng. Một lần nữa Ngài từ chối vì xét thấy những gì đã chứng được không phải là sự thật tối hậu, lý lẽ của sống và chết, ý nghĩa của nhân sinh, của cuộc đời, con đường dẫn tới giải thoát, cõi Niết-bàn bất tử.
Trong 6 năm ròng rã tiếp theo, tại một khu rừng ở Uruvela, sa-môn Gotama kiên trì tu khổ hạnh ép xác tới mức con người Ngài gầy khô như bộ xương, đôi mắt sâu hoẵm xuống, sức khỏe giảm sút đến nỗi Ngài không còn đi vững được nữa. Cùng tu với ngài có 5 anh em: Kondana (Kiều Trần Như), Bhadhya, Vappa, Mahanama và Asaji. Cuối cùng Ngài nghiệm thấy, càng kiên trì khổ hạnh, chân lý tối hậu như càng lùi ra xa, tâm trí càng mê mờ, thân thể càng suy yếu. Ngài thấy rõ, khổ hạnh, ép xác không phải là con đường thoát khổ và cứu khổ.
Sa-môn Gotama quyết định ăn uống bình thường trở lại. Năm người bạn đồng tu, vốn đặt niềm tin và hy vọng tuyệt đối vào Ngài sẽ chứng đắc đầu tiên, tưởng rằng Ngài đã thoái chí nên quyết định rời bỏ Ngài.
Ở lại một mình, Ngài quyết tâm tự mình phấn đấu để chứng ngộ chân lý tối hậu. Ngài lấy lại sức nhờ uống bát sữa do một thôn nữ tên là Sujata cúng dường.
Sau đó, sa-môn Gotama thiền định suốt 49 ngày dưới gốc cây pippala hay assatha, sau này được đổi tên là cây Bồ-đề, tự mình chiến đấu với nội tâm, suy tư về lẽ sống chết, về những nguyên nhân tích tập dẫn tới luân hồi sanh tử và con đường giải thoát, dẫn tới Niết-bàn.
Cuối cùng, sa-môn – thái tử Siddhattha Gotama vào năm ba mươi lăm tuổi đã chứng quả Giác Ngộ (bodhi). Ngài đã trở thành Đức Phật, một đấng Giác Ngộ, tỉnh thức và như vậy là được giải thoát khỏi vòng luân hồi sanh tử (samsara). Trong tiếng Pali, “Buddha” (Phật-đà) có chữ gốc “Buddh” là hiểu biết, giác ngộ chân lý tối hậu, cứu kinh. Sách Pali gọi Ngài là Samma Sambuddha, với nghĩa là bậc Toàn giác, không gì không biết, không thấy; bậc Thánh, không những giác ngộ đầy đủ cho bản thân mình, mà còn giác ngộ đầy đủ cho tất cả mọi người khác, cho tất cả mọi chúng sanh. Nơi Đức Phật giác ngộ ngày nay được đặt tên là Bodh Gaya (Bồ Đề Đạo Tràng) ở Ấn Độ (xem thêm: 4 Thánh tích Phật giáo).
Sau khi thành đạo, Đức Phật tiếp tục sống bảy ngày đầu tiên dưới cội cây bồ-đề. Truyền thuyết kể rằng Ngài an nhiên trước sự chúc tụng, phá rối của ma nữ.
Hai thương nhân Tapussa và Bhallika cúng dường Đức Phật bữa cơm đầu tiên sau khi thành đạo gồm có cháo mạch và mật ong và xin quy y bậc Giác Ngộ cùng Giáo Pháp của Ngài, mặc dù khi đó Giáo Pháp này chưa được tuyên bố. Đây được xem là hai đệ tử tại gia đầu tiên của Đức Phật. Cũng trong thời gian này, Đức Phật do dự trước khi chuyển bánh xe Pháp. Cuối cùng Ngài quyết định sẽ tuyên bố với thế gian về con đường đạo cứu khổ và diệt khổ, con đường đạo dẫn tới cõi bất tử, cõi Niết-bàn.
Trên đường đi Benares (Ba-la-nại), Đức Phật gặp một du sĩ lõa thể tên là Upaka, người theo chủ thuyết định mệnh cực đoan. Vẻ hân hoan nội tâm tỏa ra trên khuôn mặt sáng chói của Ngài khiến vị này chú ý và hỏi ai là Đạo Sư của Ngài và Giáo Pháp Ngài như thế nào. Đức Phật đầy tự tin tuyên bố Ngài đã được giải thoát nhờ ái diệt, Ngài là vị thắng giả chiến trường, vì vậy Ngài không có Đạo Sư, mà chính Ngài là bậc Đạo Sư.
Tại Vườn Nai (Lộc Uyển), ở Isipatana gần thành Benares. Đức Phật giảng bài pháp đầu tiên cho 5 người bạn đồng tu ngày trước của mình. Bài kinh danh tiếng Chuyển Pháp Luân đã khởi đầu sự nghiệp hoằng Pháp của Ngài. Bài kinh trình bày Pháp (Dhamma) là Trung Đạo và nêu lên hệ thống Bốn Chân Lý (tức Tứ Thánh Đế): Khổ, Nguồn gốc của Khổ, Khổ Diệt và Con Đường đưa đến Khổ Diệt là Thánh Đạo Tám Ngành (tức Bát Chánh Đạo): 1. Chánh Kiến (Samma-Ditthi) 2. Chánh Tư duy (Samma-Sankappa) 3. Chánh Ngữ (Samma-Vaca) 4. Chánh Nghiệp (Samma-Kammanta) 5. Chánh Mạng (Samma-Ajiva) 6. Chánh Tinh tấn (Samma-Vayama) 7. Chánh Niệm (Samma-Sati) 8. Chánh Định (Samma-Samadhi) Nghe xong bài thuyết pháp này và một bài thứ hai bàn về thuyết Vô ngã (không có cái Ta), năm vị tu sĩ đều được giác ngộ, trở thành năm vị Tỳ-kheo đầu tiên. Chữ “Tỳ-kheo” dịch âm từ chữ Pali là “bhikkhu”, nghĩa là “người khất thực”. Năm vị này không bao lâu đều trở thành A-la-hán, tức là bậc thánh đạt giác ngộ giải thoát khỏi khổ đau và sanh tử luân hồi. Nơi Đức Phật giảng pháp đầu tiên ngày nay là vùng Sarnath thuộc Ấn Độ. (xem thêm: 4 Thánh tích Phật giáo).
Đức Phật giác ngộ cho Yasa – con trai của một người triệu phú gần thành Benares. Chàng trai này tuy sống cuộc đời đầy đủ xa hoa nhưng lại sớm chán cảnh sống thế gian tầm thường vô vị và tìm đến Đức Phật để nghe thuyết pháp và xin thọ giới Tỳ-kheo. Cha của Yasa, trên đường đi tìm con trai, cũng đến Vườn Nai và được nghe Phật thuyết pháp, ông xin Phật cho quy y và trở thành người đệ tử tại gia thứ ba của Đức Phật. Ông là người đầu tiên được giáo hóa với phương thức Tam Quy Phật, Pháp, Tăng.
Đức Phật đến thọ thực tại nhà tôn giả Yasa theo lời mời. Mẹ và vợ của tôn giả sau khi thọ giáo bài Pháp thuận thứ với đầy đủ chi tiết của Đức Phật, liền quy y Tam bảo và đã trở thành hai nữ đệ tử cư sĩ đầu tiên (upasika) của Đức Phật. Chẳng bao lâu sau, hơn 50 bạn bè và thân hữu của tôn giả Yasa từ các vùng lân cận thành Benares cũng gia nhập Giáo đoàn và đều đắc quả A-la-hán.
Đức Phật thành lập đoàn Tăng sĩ thuyết pháp đầu tiên. Tăng đoàn bao gồm 60 vị A-la-hán đầu tiên, những tu sĩ khất thực, không có nhà ở cố định, không có của cải vật chất nào khác ngoài tấm áo vàng che thân và bình bát để xin ăn. Tăng đoàn thuyết giảng về đạo lý cứu khổ và cuộc sống Thánh hạnh, tự mình nêu gương sáng về cuộc sống Thánh hạnh và giải thoát. Bằng cách cho phép chư Tăng truyền giới xuất gia, Đức Phật đã cắt cuống nhau liên kết Tăng chúng và vị sáng lập Đạo Pháp, khiến cho Tăng chúng có thể sống đời độc lập của mình.
Đức Phật giáo hóa cho 30 thanh niên nhà giàu khi đang trên đường đến Uruvela. Nhờ nghe pháp, họ được giác ngộ và xin Phật cho xuất gia làm Tỳ-kheo.
Truyện kể rằng Đức Phật đã hàng phục con rắn thiêng của đạo sĩ Uruvela Kassapa, khi Ngài xin phép ngủ qua đêm tại phòng riêng của ông này. Ba anh em ông Kassapa đều là những đạo sĩ khổ hạnh bện tóc (jatila) thờ lửa và nước, có danh vọng lớn và rất nhiều đệ tử ở xứ Magadha (Ma-kiệt-đà).
Sau khi nghe Phật thuyết pháp, người anh cả Uruvela Kassapa xin thọ giới Tỳ-kheo cùng với 500 môn đồ. Các vị đều cắt bỏ sạch các cuộn tóc bện của mình, ném bỏ các đòn gánh và dụng cụ thờ lửa xuống sông Neranjara.
Khi các cuộn tóc bện và các dụng cụ bằng gỗ trôi bồng bềnh xuôi dòng Neranjara ngang qua am thất của 2 người em là Nadi Kassapa và Gaya Kassapa, hai vị này đều lo sợ có tai nạn gì đó đã xảy ra cho trưởng huynh mình. Hai vị tìm gặp và được Uruvela Kassapa giải thích cho bào đệ mọi lợi ích khi gia nhập Giáo đoàn Đức Phật. Hai vị này cũng xin gia nhập Hội chúng Tỳ-kheo cùng với tất cả 500 môn đồ nữa.
Đức Phật giữ lời hứa trước khi thành đạo, đã đến giáo hóa vua Bimbisara, vua xứ Magadha, có kinh đô ở thành Rajagaha (Vương-xá). Vua tặng Đức Phật và Tăng chúng ngự viên Veluvana (Trúc Lâm), nơi đây Đức Phật đã trải qua 6 mùa an cư kiết hạ.
Bà Khema, vợ thứ của vua Bimbisara mang mặc cảm với Phật pháp vì bản thân bà chuộng sắc đẹp. Nhân đó, Đức Phật dạy bà Khema về sự vô thường của cái đẹp. Nhờ Đức Phật khai thị, sau này bà đã xuất gia, trở thành Đệ nhất trí tuệ trong Ni chúng. Bà cùng với bà Pajapati Gotami (bà dì mẫu nuôi nấng Đức Phật thời thơ ấu) lãnh đạo Ni chúng.
Tôn giả Sariputta (Xá-lợi-phất) gặp gỡ Tỳ-kheo Assaji (Mã Thắng) ở thành Rajagaha (Vương-xá). Được khai ngộ về Đức Phật, Tôn giả Sariputta và người bạn thân Moggalana (Mục-kiền-liên) đều xin quy y, chứng đắc Thánh quả A-la-hán trong một thời gian ngắn và ngay lập tức trở thành hai đại đệ tử hàng đầu của Đức Phật.
Đức Phật về thăm quê hương Kapilavatthu sau khi thành đạo và gặp Phụ vương Suddhodana (Tịnh Phạn).
Công chúa Yasodhara, người vợ trước kia của Đức Phật, chỉ cho hoàng tử Rahula biết Đức Phật chính là người cha của mình.
Đức Phật gặp lại công chúa Yasodhara sau 7 năm. Sau khi vua Suddhodana qua đời Công chúa cũng xuất gia cùng với bà dì mẫu Pajapati và không bao lâu chứng quả A-la-hán. Trong số các Tỳ-kheo-ni, công chúa là người giỏi phép thần thông nhất. Năm 78 tuổi, công chúa nhập Niết-bàn.
Đức Phật giao hoàng tử Rahula (La-hầu-la) cho Ngài Sariputta trực tiếp dạy dỗ. Sau này, Ngài Rahula chứng quả A-la-hán, và qua đời trước Đức Phật và Ngài Sariputta.
Nhà triệu phú, trưởng giả Sudatta Anathapindika (Tu-đạt Cấp-cô-độc) mua một khu vườn của Thái tử Jeta (Kỳ-đà) ở Sàvatthi (Xá-vệ) và xây ở đây tịnh xá Jetavana (Kỳ-viên) nổi tiếng để cúng dường Đức Phật. Đức Phật đã giảng nhiều bài kinh và trải qua 19 mùa mưa ở tịnh xá này. Ông Cấp-cô-độc là vị thí chủ lớn nhất ủng hộ Đức Phật và Tăng chúng thời Đức Phật còn tại thế.
Đức Phật hòa giải xung đột về việc sử dụng nguồn nước sông Rohini (nay là Rowai) ở biên giới giữa cộng hòa Sakya và lãnh thổ bộ tộc Koliya, vào dịp viếng thành Kapilavatthu lần thứ hai.
Bà Mahapajapati (Ma-ha ba-xà-ba-đề, bà dì mẫu của Đức Phật) ba lần xin được xuất gia nhưng Đức Phật đều từ chối.
Ngài Ananda thuyết phục Đức Phật cho bà Mahapajapati và các bà dòng họ Sakya được xuất gia Tỳ-kheo-ni. Giáo Hội Tỳ-kheo-ni chính thức ra đời.
Saccaka Aggivessana, vị Bà-la-môn nổi tiếng là biện tài, đã đến tranh luận với Đức Phật về giáo lý Vô Ngã. Cuối cùng ông phải xấu hổ chấp nhận sự ngụy biện của mình.
Đức Phật khiển trách tôn giả Pindola Bharadvaja, người dùng thần thông lấy xuống cái bát treo trên ngọn sào. Ngài đồng thời chế định điều luật cấm dùng thần thông.
Đức Phật từ chối bước lên tấm thảm của Vương tử Bodhirajakumara vì biết ước nguyện cầu con của Vương tử này sẽ không thành do nghiệp quá khứ.
Bà-la-môn Magandhiya cảm mến diện mạo phi phàm của Đức Phật nên muốn gả người con gái xinh đẹp cho Ngài. Đức Phật khai thị cho ông bà chứng quả nhập lưu.
Quý phi Magandiya, vợ thứ của vua Udena xứ Kosambi, chống đối Đức Phật vì Hoàng hậu Samavati là một tín nữ thuần thành. Bà thuê người mạ lị Đức Phật và Tăng chúng khi Ngài đi khất thực. Sau này Magandiya phóng hỏa mưu sát hoàng hậu và phải chịu chết thảm.
Ngoại đạo lập mưu hạ uy tín của Đức Phật và chư Tăng bằng cách mua chuộc nàng Sundari thường lui tới Tinh xá Kỳ-viên, rồi thuê người giết nàng vùi xác vào Tinh xá để vu cáo. Niềm tin tưởng rằng Giáo hội Đức Phật không liên hệ gì đến vụ mưu sát này lan truyền rất nhanh và sự việc sau đó được sáng tỏ.
Ngoại đạo còn mua chuộc nàng Cinca giả có thai để vu cáo cho Đức Phật trước mặt hội chúng đông đảo. Vụ việc bại lộ, nàng phải vội vã rời thính chúng và sau đó chết vì bị đất sụp.
Dạ-xoa Alavaka đối xử với Đức Phật bằng thái độ trịnh thượng và những câu vấn nạn. Đức Phật cảm hóa vị này bằng sự nghiêm từ và giảng giải diệu pháp.
Du sĩ ngoại đạo Suppiya đi theo sau Đức Phật và chư Tăng, dùng nhiều lời lẽ hủy báng Tam Bảo, trong khi đệ tử của ông ta là Brahmadatta tán thán Tăng đoàn không tiếc lời.
Đức Phật cảm hóa tướng cướp Angulimala (Người đeo vòng ngón tay), tên tướng cướp khét tiếng hung ác của xứ Kosala đã làm cho mình một xâu chuỗi đeo cổ bằng các lóng tay của những người bị y giết hại. Angulimala xin Đức Phật nhận vào Giáo đoàn và sau này chứng quả A-la-hán.
Đức Phật dạy rằng: thực hành những nghi lễ giả tạo không mang đến một ích lợi gì cả, không thể giúp được bản thân mình hay bất cứ ai.
Vua Pukkusanti xứ Gandhara sau khi đọc được ba câu Phật ngôn đã tỏ ngộ quyết chí xuất gia. Quần thần xin được tiễn đưa nhưng vị vua này gạt qua một bên, nhất quyết đi một mình.
Bà-la-môn Akkosaka Bharadvaja mạ lị Đức Phật. Đức Phật từ bi dạy rằng ai mắng chửi người không phẫn nộ thì tự mình sẽ nhận lấy tất cả những lời mắng chửi đó. Bà-la-môn này tỉnh ngộ xin quy y Tam Bảo.
Bà-la-môn phú hào Kasi Bharadvaja đang phân phát cơm sữa cho nông dân ăn sáng đã chất vấn Đức Phật có “cày và gieo” hay không để nhận phần ăn? Đức Phật trả lời: “Ta gieo hạt giống chánh tín, cây cày là trí tuệ, tinh tấn là đôi bò kéo cày, thành quả lao động của ta là trạng thái Bất Tử . Bất cứ ai làm xong việc ấy, sẽ được giải thoát khổ đau.” Vị Bà-la-môn ấy được Giáo Pháp cảm hóa và trở thành Tỳ-kheo.
Bà mẹ Kisa Gotami khẩn khoản xin Đức Phật cứu chữa đứa con yêu duy nhất vừa mới chết. Đức Phật giảng giải cho nàng hiểu sanh tử biệt ly là điều tất nhiên của cuộc sống.
Một phụ nữ bị bệnh tâm thần, khỏa thân đã trở lại có tri giác sau khi nghe Đức Phật thuyết pháp.
Đức Phật cho phép Sunita, một người quét đường ở thành Rajagaha (Vương Xá) thuộc giai cấp Chiên-đà-la là giai cấp khốn cùng nhất xã hội Ấn Độ thời đó, được xuất gia làm Tỳ-kheo. Sự kiện này đã làm chấn động xã hội vốn kỳ thị giai cấp lúc đó.
Các đệ tử của Đức Phật cứu Sopaka, một đứa bé bất hạnh bị cha ghẻ cột vào xác chết ở bãi tha ma. Sau này Sopaka trở thành một Thánh tăng.
Khajjuttra, một nữ nô lệ, nói lên sự thật với chủ mình sau khi được nghe Đức Phật thuyết giảng.
Tôn giả Ananda, vốn là em họ của Đức Phật và sau này trở thành Thị giả chăm sóc Đức Phật trong suốt 25 năm, gặp thiếu nữ Prakriti thuộc giai cấp Chiên-đà-la, giai cấp khốn cùng nhất xã hội. Tôn giả đã nói với nàng về sự không phân biệt giai cấp.
Theo ngoại sử, sau đó nàng Prakriti đem lòng quyến luyến tôn giả Ananda. Đức Phật đã giáo hóa để giúp tôn giả cởi bỏ dây ái dục trói buộc. Đức Phật tán thán năm đức hạnh của tôn giả Ananda là: học uyên bác, trí nhớ tốt, kiên định, săn sóc chu đáo, ứng xử tốt. Mãi sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn, tôn giả Ananda mới chứng quả A-la-hán. Đó là do khi Đức Phật còn tại thế, tôn giả bận làm công việc thị giả, cũng như bận ghi nhớ các bài giảng của Đức Phật, như một đệ tử bác học đa văn. Tôn giả Ananda nhập Niết bàn năm ông 120 tuổi.
Vương tử Hatthaka gặp Đức Phật đang ngồi nghỉ một mình trong khu rừng, ông hỏi Đức Phật có an lạc không? Đức Phật trả lời: “Như Lai là người thật sự an lạc ở đời.”
Một Bà-la-môn đánh lén tôn giả Sariputta (Xá-lợi-phất), bậc Thượng thủ – Đệ nhất trí tuệ của Đức Phật, khi Ngài đang đi khất thực. Ngài không hề giận mà còn độ người này đắc thánh quả A-la-hán.
Tôn giả Ratthpala đi khất thực ngang qua nhà cha mẹ mình thì bị nữ tỳ nhận ra. Cha mẹ ngài tìm cách khiến ngài hoàn tục nhưng ai có thể thay đổi được một bậc Thánh đã thành?
Bandhula Mallika đang cúng dường thức ăn cho chư tăng, nhờ lòng tịnh tín bất động bà đã giữ được sự điềm tĩnh hiếm có khi hay tin chồng con mình bị sát hại cùng lúc.
Đạo Phật ra đời khiến rất nhiều thiện gia nam tử đã xuất gia hướng cầu giác ngộ giải thoát. Sự gia tăng nhanh chóng số lượng Tỳ-kheo đã khiến nhiều ngoại đạo chỉ trích. Tăng đoàn đông đảo của Đức Phật cũng bị đặt điều chỉ trích ở nhiều nơi. Tuy nhiên Đức Phật luôn luôn nỗ lực hướng về nội bộ để rèn luyện các Tỳ-kheo giữ gìn đúng giới luật.
Sự phát triển nhanh chóng của Phật Pháp đã khiến nhiều ngoại đạo lo lắng, tìm cách công kích, triệt hạ. Nhưng Phật Pháp vẫn chói sáng và vượt thắng tất cả.
Bà-la-môn bác học Brahmayu sai học trò xuất chúng của mình là Uttara đến gặp Đức Phật để xem tướng. Uttara trở về thuật lại tướng hảo phi phàm của Đức Phật.
Tu sĩ Bahiya ngỡ mình là bậc A-la-hán. Vị này được chỉ bảo đã tìm đến Đức Phật lúc Ngài đang đi khất thực và được Ngài truyền Pháp.
Bà-la-môn Mahasala vốn là một đại phú gia nhưng về sau trở nên nghèo khổ vì bị con cái bất hiếu chiếm đoạt hết tài sản. Đức Phật đã giúp vị này cảm hóa con mình.
Đức Phật đích thân chăm sóc cho một Tỳ-kheo bị bệnh huyết lỵ, nằm bơ vơ giữa đống phân dơ không ai quan tâm. Sau đó ngài gọi Tăng chúng vùng ấy đến và khuyến giáo: “Này các Tỳ-kheo, chư vị không có cha mẹ chăm sóc mình. Vậy nếu chư vị không chăm sóc nhau, thì ta thử hỏi, ai sẽ làm việc ấy? Này các Tỳ-kheo, bất cứ ai trong chư vị muốn chăm sóc ta (nếu ta bị bệnh), thì vị ấy phải chăm sóc người bạn đồng Phạm hạnh bị bệnh”.
Một Tỳ-kheo là đệ tử của tôn giả MahaKassapa (Ma-ha-ca-diếp hay Đại-ca-diếp) đã tu tập chứng thiền nhưng sau đó lại thối thất hoàn tục. Vì này phạm pháp bị đem xử tử. Được nhắc nhở, vị này hồi tâm và chứng Thánh quả.
Bà-la-môn Bharadvaja mỗi ngày thực hiện nghi lễ thanh tịnh hóa bằng cách tắm sông Hằng. Một đệ tử tại gia của Đức Phật thấy vậy nói rằng nước sông không tẩy sạch được phiền não.
Tỳ-kheo-ni Dhammadinna thuyết pháp cho người chồng trước kia là cư sĩ Visakha. Sự thủ lễ của một nam cư sĩ nói lên sự thay đổi đáng kể trong quan niệm trọng nam khinh nữ thời bấy giờ.
Bà Visakha, một vị đại phú gia, là nữ thí chủ lớn nhất của Đức Phật và Tăng chúng. Bà đã cúng dường Tinh xá Pubbarama (Đông viên Tinh xá) ở Savatthi (Xá Vệ) và nhiều vật dụng khác cho tất cả Tỳ-kheo đến đây. Trong khi đó, cha chồng của bà là một người không bao giờ chịu bố thí thức ăn cho ai. Bà đã nói khéo cha chồng rằng, mọi thứ đồ ăn rồi cũng sẽ thối rữa hết.
Đức Phật thuyết pháp giáo hóa cô con dâu Suyata ngỗ nghịch, bướng bỉnh của ông Cấp Cô Độc. Sau khi nghe bài pháp về 7 loại người vợ, cô này đã trở nên nhu thuận.
Tỳ-kheo-ni Uppalavanna là một trong hai vị thượng thủ trong Ni giới thời Đức Phật. Vị này vốn có nhan sắc tuyệt đẹp nên sau khi xuất gia vẫn thường xuyên bị quấy nhiễu.
Tôn giả Punna xin Đức Phật cho qua xứ Sunaparanta để hoằng Pháp. Đức Phật nêu ra một loạt khó khăn ở xứ này và hỏi “Làm sao để khắc phục những khó khăn?”. Tôn giả thưa rằng: “Bằng cái nhìn như lý tác ý”.
Đức Phật cho phép trồng cây Bồ-đề ở Tinh xá Kỳ Viên vì nhiều người ở xa về thành Xá Vệ mong gặp mặt Đức Phật nhưng nhiều khi không được gặp. Cây bồ-đề tượng trưng cho Ngài. Cây Bồ-đề ấy hiện nay vẫn còn và được gọi là cây Bồ-đề Ananda.
Bà-la-môn Dhammika tổ chức tế đàn giết vật tế thần. Đức Phật đến chỗ ấy và dạy rằng: “Máu và sự khổ đau của chúng sanh bị giết làm hỏng tất cả sự cúng tế.”
Bà-la-môn Aggika Bharadvaja thờ lửa với nghi thức cúng tế. Đức Phật thuyết pháp cho vị này và vị này phát tâm cúng dường nhưng Đức Phật từ chối.
Bà-la-môn Sundarika nhìn Đức Phật từ xa và không có hảo cảm nhưng vẫn miễn cưỡng đến hỏi đạo lý. Lời dạy của Đức Phật đã khai mở trí tuệ cho vị này.
Cư sĩ Nakulapita đau nặng, người vợ nhắc nhở là không có gì phải bận tâm vì bà có thể tự lo và đã có đức tin vững chắc nơi Tam Bảo.
Tôn giả Sariputta (Xá-lợi-phất) trước khi viên tịch đã cố gắng về quê để độ cho thân mẫu mình.
Một lần Đức Phật dạy chư Tỳ-kheo: Như hoa dại khéo kết thì thành tràng hoa đẹp, cũng vậy, từ thân sanh tử nhiều thiện sự được tác thành.
Mùa hạ thứ 12, Đức Phật và chư Tăng an cư tại Veranja ở phía nam thành Savatthi (Xá-vệ) theo lời thỉnh cầu. Lúc đó hạn hán, thực phẩm khan hiếm, nhiều khi các Tỳ-kheo phải mang bát không trở về. May mắn có vài nhà buôn ngựa từ Bắc Ấn cũng vừa đến đay với bầy ngựa nên họ cho các Tỳ-kheo một ít cám bột mì. Khi tôn giả Ananda đem đến mời Đức Phật món ăn này, Ngài bình thản tuyên bố một ngày kia tình thế sẽ trở lại tốt đẹp hơn.
Chư Tỳ-kheo ở Kosambi bất hòa, Đức Phật cảm hóa họ bằng cách đi sâu vào rừng Parileyya gần Kosambi và sống một mình. Truyện kể rằng một đàn voi hoang dã đã đến hầu Phật trong thời gian 3 tháng.
Vua Bimbisara (Tần-bà-sa-la) xứ Magadha, một đệ tử tại gia của Đức Phật, sau khi nhường ngôi cho con là vương tử Ajatasattu (A-xà-thế) đã bị chính con mình giam vào ngục thất và bị bỏ cho chết đói.
Khi Đức Phật về già, Tỳ-kheo Devadatta (Đề-bà-đạt-đa), vốn là em họ của Đức Phật, đã yêu cầu trao cho mình quyền lãnh đạo Tăng già, nhưng Đức Phật kiên quyết không chấp nhận. Devadatta nuôi dưỡng hận thù và âm mưu, đã nhiều lần tìm cách ám hại Đức Phật. Cùng với vua Ajattasattu (A-xà-thế), Devadatta thuê người giết hại Đức Phật nhưng những người này đều được Đức Phật cảm hóa trở thành đệ tử.
Devadatta thấy tự mình phải hạ thủ sát hại Đức Phật. Một lần Đức Phật đang đi dọc bờ núi Gijjhakuta (Linh Thứu), thì Devadatta từ trên đỉnh núi đẩy xuống một tảng đá lớn. May mà tảng đá nầy lăn đụng phải một tảng đá khác và bị vỡ. Đức Phật chỉ xây xát và chảy máu ở chân.
Một lần khác, Devadatta cho một con voi điên uống rượu, rồi xua voi húc Đức Phật. Con voi chạy đến gần Phật thì bỗng nhiên đứng lại, bị thuần phục và được Phật xoa đầu. Sau lần âm mưu thất bại này, vua Ajatasattu sợ quá, không dám tiếp tục che chở cho Devadatta nữa.
Vương tử Abhaya (Vô-Úy) được thầy là Nigantha Nataputta sai đến vấn nạn Đức Phật bằng một câu hỏi chứa đựng cạm bẫy. Đức Phật đã thuyết pháp hóa độ vị Vương tử này. (xem thêm: Kinh Vương Tử Vô-Úy thuộc Kinh Trung Bộ)
Vua Ajatasattu (A-xà-thế) lần đầu diện kiến Đức Phật với sự hướng dẫn của Jivaka, vị ngự y già cũng là đệ tử Đức Phật, trong Vườn Xoài ở Rajagaha (Vương Xá, kinh đô của nước Magadha tức Ma-kiệt-đà) do chính y sĩ này thiết lập. Sau khi nghe Pháp thoại và đàm đạo với Đức Phật, vua Ajatasattu ăn năn hối cải của vì đã giết phụ vương mình.
Ambapali, người kỹ nữ nổi danh tài sắc ở thành phố Vesali – thủ đô của cộng hòa Licchavi, thỉnh được Đức Phật và chư Tăng thọ trai tại nhà. Các hoàng tử Licchavi muốn đổi cơ hội này bằng một số tiền khổng lồ nhưng nàng từ chối. Ambapali đã dâng tặng Đức Phật và chúng Tăng vườn xoài to lớn của bà để làm Tinh xá Ambapalivana. Sau này, bà cũng xuất gia và chứng quả A-la-hán. Hai sự kiện Angulimala và Ambapali cho thấy, cửa Đạo Từ Bi mở rộng cho tất cả mọi người, không phân biệt giàu sang, nghèo hèn và đẳng cấp xã hội. Một tướng cướp như Angulimala, một dâm nữ như Ambapali, nếu thành tâm hối lỗi, cũng có thể xuất gia, tinh tấn tu học và chứng Thánh quả cao nhất. Một lòng tin thuần thành, và một nỗ lực lớn nhất: đó là điều kiện cơ bản để đi vào đạo Thánh và trở thành bậc Thánh trên thế giới này. Đạo Phật không đòi hỏi một điều kiện nào khác.
Vua Pasenadi (Ba-tư-nặc) nước Kosala trở thành đệ tử tại gia. Ông và hoàng hậu Malika là những thí chủ lớn của Đức Phật và Chư Tăng, đã được nghe Đức Phật thuyết pháp nhiều lần.
Đức Phật ba lần ngăn cản vua Vidudabha nước Kosala, vì thâm thù dòng họ Thích-ca nên đem quân tiêu diệt. Tuy nhiên cuối cùng vua này cũng chiếm và phóng hỏa phá hủy thành Kapilavatthu, quê hương của Đức Phật (nay là Tilaurakot ở Nepal).
Sau khi tuyên bố sẽ nhập Niết bàn, Đức Phật đến vườn cây Sala đang nở rộ hoa ở Kusinara, thủ đô thứ hai của bộ tộc Malla. Vua xứ Malla nhận được tin Đức Phật sắp viên tịch nên vội vã đến đảnh lễ.
Đức Phật hóa độ cho người cuối cùng là du sĩ Subhadda, vị này sau một thời gian tu học tinh tấn cũng đã trở thành một A-la-hán. Đức Phật sắp mệnh chung nhắn nhủ chư Tỳ-kheo những lời cuối cùng: “Này các Tỳ-kheo, ta khuyên bảo chư vị: mọi pháp hữu vi đều biến hoại. Hãy tích cực phấn đấu!”. Đức Phật sau đó đã đắc Niết-bàn vô dư y, một trạng thái giải thoát khổ đau sau khi xả báo thân. Năm đó Ngài tám mươi tuổi. Nơi Đức Phật nhập Niết-bàn ngày nay là vùng Kushinagar (Câu Thi Na) ở Ấn Độ (xem thêm: 4 Thánh tích Phật giáo).
Sau lễ trà-tỳ (hỏa táng), B-la-môn Dona đã dùng thỏa hiệp để hòa giải tranh chấp về việc phân chia xá-lợi của Đức Phật. Xá-lợi (là phần xương và tro) được chia thành tám phần đều nhau, mỗi phần thuộc về: 1. Đại Vương Ajatasattu ở Rajagaha nước Magadha. 2.Bộ tộc Licchavì ở Vesali. 3. Bộ tộc Sakiya ở (Tân) Kapilavatthu. 4. Bộ tộc Bulì ở Allakappa. 5. Bộ tộc Koliya ở Ramagama. 6. Một Bà-la-môn ở Vethadìpa. 7. Bộ tộc Malla ở Pava. 8. Bộ tộc Malla ở Kusinara Khi xá-lợi đã được chia như vậy xong thì một sứ giả từ bộ tộc Moriya ở Pipphalivana đến đòi chia phần. Vị ấy đành phải chịu nhận một ít tro ở giàn hỏa. Còn Bà-la-môn Dona giữ lấy cho mình cái bình đất đã đựng xá-lợi sau khi hỏa thiêu và được dùng để chia phần. Tất cả mười bình xá-lợi ấy đều được tôn thờ trong mười ngôi tháp.
Ba tháng sau khi Đức Phật viên tịch, trưởng lão Mahakassapa (Ma-ha-ca-diếp hay Đại-ca-diếp) đã triệu tập đại hội kết tập Kinh Tạng lần thứ nhất tại Rajagaha (Vương Xá) dưới sự bảo trợ của vua Ajatasattu (A-xà-thế). Thánh điển được thiết lập không phải viết thành văn mà là ghi vào tâm trí của các vị Tỳ-kheo. (Xem thêm: “Các đại hội kết tập Kinh điển Phật giáo” – Wikipedia)
Hơn hai thế kỷ sau khi Đức Phật viên tịch, Hội Đồng Kết Tập Thứ Ba được tổ chức tại Pataliputta (nay là Patna) dưới sự bảo trợ của vị Đại Đế Phật tử của Ấn Độ, Asoka Moriya (vua A Dục). Hội đồng này một lần nữa lại tổng duyệt Kinh Điển của Thượng Tọa Bộ (Theravada) và thêm vào hai tạng Kinh và Luật hiện hành một tác phẩm thứ ba có tính chất lý luận học thuật. Cùng với sự bổ sung một số tác phẩm mang tính học thuật khác nữa trong vòng hai thế kỷ kế tiếp đó, cuối cùng xuất hiện một bộ sách thứ ba được mệnh danh Luận A-tỳ-đàm, Thắng Pháp, Vô Thượng Pháp hay Vi Diệu Pháp (Abhidhamma). Ba bộ thánh điển được đặt tên là “tạng” hay giỏ (pitaka), và vì thế Kinh Điển Pali thường được gọi là Tam Tạng (Tipitaka). (Xem thêm: “Các đại hội kết tập Kinh điển Phật giáo”, “A-dục vương”, “Ashoka“ – Wikipedia)
Đại Đế Asoka đã tích cực đóng góp cho việc bảo tồn và phát huy Phật Pháp. Ngài đã thành lập nhiều phái đoàn Tăng, Ni đi đến các quốc gia khác để hoằng Pháp độ sinh. Chính nhờ sự nghiệp thành công viên mãn của Đại Đế Asoka mà Tam Tạng Pali được bảo tồn cho đến thời đại chúng ta.
Chính Đại Đế Asoka đã phái hoàng tử – Tỳ-kheo Mahinda mang Pháp đi giáo hóa đảo quốc Tích Lan (Ceylon, ngày nay là Sri Lanka) theo đạo Phật. Tại các tinh xá trên đảo quốc này, Kinh Tạng Pali tiếp tục được bảo trì trong tâm trí chư Tỳ-kheo. Với việc làm này, Đại Đế Asoka đã bảo đảm cho Phật Pháp an trú trong một ngôi nhà mới để tiếp tục tồn tại và vượt qua bao cơn khủng hoảng lịch sử. (xem thêm: “Mahinda” – Wikipedia)
Đại Đế Asoka cũng phái công chúa – Tỳ-kheo-ni Sanghamitta sang Tích Lan (Sri Lanka) mang theo cây bồ-đề được trồng tại Anuradhapura. (xem thêm “Sanghamitta” – Wikipedia)
Đại Đế Asoka đã cho lập nhiều bia đá, cột đá (thạch trụ) khắc “Pháp dụ, sắc dụ” tức là những sắc lệnh, điều luật dựa trên tinh thần Chánh Pháp của Đức Phật.
Vào thế kỷ thứ nhất trước Công Nguyên, trong lần kết tập Tam Tạng lần thứ 4 ở Sri Lanka (Tích lan), lần đầu tiên Kinh Điển bằng tiếng Pali được viết trên lá bối (lá cọ). (Xem thêm: “Các đại hội kết tập Kinh điển Phật giáo” – Wikipedia)
Năm 1871, trong lần kết tập Tam Tạng lần thứ 5 tại Mandalay, Miến Điện (Myanmar), Kinh Điển bằng tiếng Miến Điện đã được khắc lên các bia đá cẩm thạch. (Xem thêm: “Các đại hội kết tập Kinh điển Phật giáo” – Wikipedia)
Bánh xe Pháp (Dhammacakka, Pháp luân) – bánh xe có 24 nan hoa này là biểu tượng của Phật Pháp – ngày nay hiện diện trên quốc kỳ Ấn Độ. Chuyển bánh xe Pháp (chuyển Pháp luân) tức là truyền bá cho thế gian biết về đạo Pháp mà Đức Phật đã chứng ngộ.
Tổng hợp – so sánh – chọn lọc từ nhiều nguồn uy tín: kinh sách, sách in, các trang mạng,… Xin được cảm ơn và tri ân tất cả những cá nhân đã cống hiến thời gian, công sức, của cải, tâm huyết để thu thập, đánh máy, ghi âm, lưu trữ, ấn tống và chia sẻ miễn phí những tư liệu quý giá này.